Đầu tư hệ thống béc phun giúp nông dân Gia Lai đạt năng suất đạt cao hơn lại còn tiết kiệm nguồn nước.
Hiện nay, việc sử dụng hệ thống béc phun để tưới cho cây trồng không những giúp giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất cây trồng mà còn giúp nhà nông tiết kiệm được nguồn nước.
Gia đình ông Nguyễn Văn Tùng (xã Kông Pla, huyện Kbang, Gia Lai) vừa đầu tư hệ thống béc phun để tưới ớt. Theo ông Tùng, trước đây, mỗi lần tưới ông phải kéo ống qua từng hàng, làm như vậy vừa tốn công sức vừa cần nhiều lao động mà hiệu quả lại không cao. Từ khi sử dụng hệ thống tưới nước tự động, ông chỉ cần đến bật công tắc điện cho máy bơm chạy, sau đó đi kiểm tra hệ thống ống nước là xong. “Hệ thống tưới béc phun này rất thuận tiện và tưới rất đều. Sáng ra mình bật điện tưới rồi canh thời gian tắt, chiều ra bật lên tưới lần nữa, đỡ tốn kém thời gian mà đất ẩm đều, cây phát triển tốt”-ông Tùng cho biết.
Được biết, hệ thống béc phun lắp đặt dễ và kinh phí cũng phù hợp, để tưới 1 sào ớt thì đầu tư chỉ khoảng 2 triệu đồng. Bà Nguyễn Thị Tình (huyện Kbang) cho biết: “Tôi thấy giá thành hệ thống tưới béc phun này cũng vừa phải, nhưng sử dụng thì tiện lợi và nhờ tưới đều nên cây trồng phát triển tốt, đem lại lợi nhuận cao hơn”.
Đặc biệt, tưới bằng béc phun còn giúp tiết kiệm nước, nhất là trong mùa khô hạn. Trước đây, khi tưới bằng tay, dòng nước phun rất mạnh, lượng nước cung cấp cho cây trồng chỗ ít, chỗ nhiều nên tiêu tốn nhiều nước, còn với hệ thống phun thì nước tỏa đều theo khoảng cách đã được lắp đặt.
Chị Vy Thị Nghiệp-Hội Nông dân huyện Kbang cho biết: “Ở đây, nhiều gia đình đầu tư hệ thống béc phun này lắm. Hội Nông dân chúng tôi cũng đã tạo điều kiện cho các gia đình vay vốn và vận động người dân đầu tư hệ thống phun này để năng suất đạt cao hơn”.
Hệ thống tưới tự động có cấu tạo đơn giản, gồm: hệ thống ống nước, béc phun và mô tơ bơm nước. Chi phí đầu tư một hệ thống như vậy cho diện tích rộng khoảng 1.000m2 từ 1-3 triệu đồng. Tùy vào loại cây trồng và mật độ để chọn các loại béc tưới khác nhau như: béc phun sương (sử dụng trong trồng rau lagim), béc con bướm (thường được sử dụng trong trồng cỏ)...
Bên cạnh đó, ở huyện đảo Lý Sơn, lắp đặt hệ thống tưới bằng béc phun cũng được áp dụng rộng rãi. Anh Trần Hiệu ở thôn Tây, xã An Vĩnh, một trong những người đầu tiên ở huyện đảo đã lắp đặt béc phun, kể: Lâu nay để tưới nước cho hành, tỏi, dưa hấu, đậu..., người dân trên đảo thường dùng ống nhựa mềm, rồi cầm trên tay để tưới.
Với kiểu tưới này thì dòng nước phun ra mạnh, lượng nước cung cấp cho cây không đều, làm tỏi, hành, dưa hấu bị giập, gãy, ảnh hưởng đến năng suất cây trồng. Sử dụng hệ thống béc phun khắc phục được hạn chế này nhưng tốn tiền, 10-15 triệu đồng cho hệ thống tưới trong phạm vi 500m2.
Tưới béc phun giúp năng suất tỏi, hành... tăng từ 10-30% so với cách tưới truyền thống. Ngoài ra dùng béc phun tiết kiệm nước từ 20-30% so với tưới truyền thống. Hiện nay, 200/300ha đất canh tác của Lý Sơn được tưới bằng béc phun.
Nhân tình thứ 2 của ông Bill Clinton bị đưa ra ánh sáng(VietQ.vn) - Ông Bill Clinton còn cặp kè với con gái của cựu Phó Tổng thống Walter Mondale trong lúc đang ngoại tình với ít nhất 2 người phụ nữ khác.
Thái Hà (T/h)
Thứ Năm, 30 tháng 6, 2016
Thứ Tư, 8 tháng 6, 2016
Khai thác thế mạnh du lịch tạo cơ hội việc làm cho người dân Lý Sơn
Việc khai thác tiềm năng và thế mạnh trong lĩnh vực du lich Ly Son đã mở ra cơ hội việc làm, gia tăng thu nhập cho người lao động tại huyện đảo này.
Đầu năm 2016 đến nay, Lý Sơn đã đón hàng chục ngàn du khách ra thăm đảo. Với lượng du khách tăng nhanh, du lịch Lý Sơn đang trở thành một điểm tham quan hấp dẫn và kỳ thú trên bản đồ du lịch Việt Nam. Ngay sau khi điện lưới quốc gia kéo ra đảo, nhiều dự án đầu tư phát triển khách sạn, nhà hàng với mức đầu tư hàng trăm tỷ đồng đã được triển khai trên đảo Lý Sơn . Nhiều lao động là người địa phương cũng đã được đào tạo và làm việc trong một môi trường mang tính chuyên nghiệp cao ở lĩnh vực du lịch.
Dự án cấp điện ngầm ra đảo Lý Sơn là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, khai thác tiềm năng du lịch ở huyện đảo. Cơ hội có được việc làm và tăng nguồn thu nhập cho cư dân địa phương cũng nhiều hơn. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2025 Lý Sơn đón khoảng 200.000 lượt khách du lịch, trong đó có 3.000 lượt khách quốc tế. Thu nhập GDP du lịch chiếm tỷ trọng gần 11% tổng GDP của huyện, giải quyết việc làm cho khoảng 4.000 lao động trực tiếp trên đảo.
>> Cẩm nang du lịch khám phá đảo Lý Sơn
Đầu năm 2016 đến nay, Lý Sơn đã đón hàng chục ngàn du khách ra thăm đảo. Với lượng du khách tăng nhanh, du lịch Lý Sơn đang trở thành một điểm tham quan hấp dẫn và kỳ thú trên bản đồ du lịch Việt Nam. Ngay sau khi điện lưới quốc gia kéo ra đảo, nhiều dự án đầu tư phát triển khách sạn, nhà hàng với mức đầu tư hàng trăm tỷ đồng đã được triển khai trên đảo Lý Sơn . Nhiều lao động là người địa phương cũng đã được đào tạo và làm việc trong một môi trường mang tính chuyên nghiệp cao ở lĩnh vực du lịch.
Dự án cấp điện ngầm ra đảo Lý Sơn là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, khai thác tiềm năng du lịch ở huyện đảo. Cơ hội có được việc làm và tăng nguồn thu nhập cho cư dân địa phương cũng nhiều hơn. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2025 Lý Sơn đón khoảng 200.000 lượt khách du lịch, trong đó có 3.000 lượt khách quốc tế. Thu nhập GDP du lịch chiếm tỷ trọng gần 11% tổng GDP của huyện, giải quyết việc làm cho khoảng 4.000 lao động trực tiếp trên đảo.
>> Cẩm nang du lịch khám phá đảo Lý Sơn
Thứ Bảy, 4 tháng 6, 2016
Cẩm nang du lịch khám phá đảo Lý Sơn
Được ví như đảo tiên giữa biển, vài năm trở lại đây Lý Sơn trở thành địa điểm du lịch hot cho du khách
Lý Sơn là một huyện đảo thuộc quản lý của tỉnh Quảng Ngãi nằm cách bờ khoảng 30 km. Với diện tích 10km2 và hơn 20.000 dân ksinh sống tại đây. Lý Sơn để lại dấu ấn đẹp trong lòng người dân bằng cảnh đẹp như “thiên đường” và chính sự mến khách của người dân nơi đây
Thời điểm thích hợp nhất để đi du lich Ly Son
Vào khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 9, mùa hè là thời điểm lý tưởng nhất để du khách đến với Lý Sơn. Vào thời điểm này, ở đây có nắng đẹp, thời tiết phù hợp cho việc đi biển, chụp ảnh.
Những ai muốn đến Lý Sơn vào mùa thu hoạch tỏi thì đến vào tháng 12. Tỏi ở đây được trồng vào tháng 9 và thu hoạch vào khoảng đầu tháng 12.
Bạn cũng có thể đến Lý Sơn vào các ngày 18-19-20 tháng 3 âm lịch để tham dự lễ khao thề lính Hoàng Sa
Phương tiện di chuyển đến Lý Sơn.
Phương tiện di chuyển đến Lý Sơn là tàu thủy
Tùy vào chi phí của từng người có thể lựa chọn các hình thức di chuyển đến Quảng Ngãi bằng máy bay, ô tô khách hoặc tàu hỏa.
Sau đó sẽ di chuyển ra đảo bằng tàu thủy. Mỗi ngày từ cảng Sa Kỳ và cảng Lý Sơn sẽ có 3 chuyến tàu từ đất liền ra đảo và từ đảo vào đất liền. Phòng vé mở cửa vào lúc 6h30 hàng ngày.
Tàu từ Đảo Lớn sang Đảo Bé khởi hành từ 8h sáng và quay lại Đảo Lớn vào lúc 14h30 hàng ngày, các bạn cũng có thể liên hệ với tàu cá của người dân để sang Đảo Bé.
Nghỉ ngơi ở đâu trên đảo Lý Sơn
Khách sạn Lý Sơn là khách sạn lớn nhất trên đảo
Khách sạn Lý Sơn là khách sạn lớn nhất trên đảo, thời gian gần đây, Lý Sơn rất thu hút khách du lịch, do đó đảo đã được đầu tư khá nhiều về dịch vụ lưu trú.
Ở đảo còn có rất nhiều nhà nghỉ giá cả hợp lý. Một lựa ơchonj thú vị hơn nếu bạn đi theo nhóm đông là có thể ngủ lại trên biển để trải nghiệm một đêm hòa mình với thiên nhiên.
Những địa điểm du lịch không thể bỏ qua khi đến Lý Sơn
Lý Sơn có rất nhiều địa điểm để bạn tham quan như:
Gỏi tỏi là món đặc sản của người Lý Sơn
Một món ăn bạn không nên bỏ qua khi đến với Lý Sơn là gỏi tỏi. Đảo Lý Sơn được dân du lịch đặt cho tên gọi là “Vương quốc tỏi”, cây tỏi ngoài lấy củ còn được chế biến thành nhiều mon săn hấp dẫn, đặc biệt là món gỏi tỏi.
Gỏi tỏi Lý Sơn được làm từ thân tỏi đực, tỏi nhổ lên chỉ lấy phần thân, bỏ lớp vỏ ngoài cùng, được hấp cách thủy rồi trộn với các loại gia vị thành một món ăn nó hương vị cay nồng, một thứ hương vị đậm chất Lý Sơn.
Đến Lý Sơn bạn có thể thoải mái thưởng thức các loại hải sản
Cũng như Cù Lao Chàm , đến với Lý Sơn bạn có thể thưởng thức hàng chục loại hải sản tươi ngon do người dân nơi đây đánh bắt và chế biến.
Ốc tượng, cua huỳnh đế, cá tà ma,… Và chả cá Lý Sơn, dưa hấu Hắc mỹ nhân, bánh ít lá gai là những món ăn bạn có thể được thưởng thức và sẽ nhớ suốt đời.
>> Trả lại môi trường xanh- sạch- đẹp cho đảo Lý Sơn
Lý Sơn là một huyện đảo thuộc quản lý của tỉnh Quảng Ngãi nằm cách bờ khoảng 30 km. Với diện tích 10km2 và hơn 20.000 dân ksinh sống tại đây. Lý Sơn để lại dấu ấn đẹp trong lòng người dân bằng cảnh đẹp như “thiên đường” và chính sự mến khách của người dân nơi đây
Thời điểm thích hợp nhất để đi du lich Ly Son
Vào khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 9, mùa hè là thời điểm lý tưởng nhất để du khách đến với Lý Sơn. Vào thời điểm này, ở đây có nắng đẹp, thời tiết phù hợp cho việc đi biển, chụp ảnh.
Những ai muốn đến Lý Sơn vào mùa thu hoạch tỏi thì đến vào tháng 12. Tỏi ở đây được trồng vào tháng 9 và thu hoạch vào khoảng đầu tháng 12.
Bạn cũng có thể đến Lý Sơn vào các ngày 18-19-20 tháng 3 âm lịch để tham dự lễ khao thề lính Hoàng Sa
Phương tiện di chuyển đến Lý Sơn.
Phương tiện di chuyển đến Lý Sơn là tàu thủy
Tùy vào chi phí của từng người có thể lựa chọn các hình thức di chuyển đến Quảng Ngãi bằng máy bay, ô tô khách hoặc tàu hỏa.
Sau đó sẽ di chuyển ra đảo bằng tàu thủy. Mỗi ngày từ cảng Sa Kỳ và cảng Lý Sơn sẽ có 3 chuyến tàu từ đất liền ra đảo và từ đảo vào đất liền. Phòng vé mở cửa vào lúc 6h30 hàng ngày.
Tàu từ Đảo Lớn sang Đảo Bé khởi hành từ 8h sáng và quay lại Đảo Lớn vào lúc 14h30 hàng ngày, các bạn cũng có thể liên hệ với tàu cá của người dân để sang Đảo Bé.
Nghỉ ngơi ở đâu trên đảo Lý Sơn
Khách sạn Lý Sơn là khách sạn lớn nhất trên đảo
Khách sạn Lý Sơn là khách sạn lớn nhất trên đảo, thời gian gần đây, Lý Sơn rất thu hút khách du lịch, do đó đảo đã được đầu tư khá nhiều về dịch vụ lưu trú.
Ở đảo còn có rất nhiều nhà nghỉ giá cả hợp lý. Một lựa ơchonj thú vị hơn nếu bạn đi theo nhóm đông là có thể ngủ lại trên biển để trải nghiệm một đêm hòa mình với thiên nhiên.
Những địa điểm du lịch không thể bỏ qua khi đến Lý Sơn
Lý Sơn có rất nhiều địa điểm để bạn tham quan như:
Cổng Tò Vò
Cột cờ Tổ quốc trên đỉnh Thới Lới
Chùa Hang Lý Sơn
Đỉnh Thới Lới
Hòn Mù Cu
Chùa Đục và Quan Âm Đài
Đảo Bé
Ăn gì khi đến Lý SơnGỏi tỏi là món đặc sản của người Lý Sơn
Một món ăn bạn không nên bỏ qua khi đến với Lý Sơn là gỏi tỏi. Đảo Lý Sơn được dân du lịch đặt cho tên gọi là “Vương quốc tỏi”, cây tỏi ngoài lấy củ còn được chế biến thành nhiều mon săn hấp dẫn, đặc biệt là món gỏi tỏi.
Gỏi tỏi Lý Sơn được làm từ thân tỏi đực, tỏi nhổ lên chỉ lấy phần thân, bỏ lớp vỏ ngoài cùng, được hấp cách thủy rồi trộn với các loại gia vị thành một món ăn nó hương vị cay nồng, một thứ hương vị đậm chất Lý Sơn.
Đến Lý Sơn bạn có thể thoải mái thưởng thức các loại hải sản
Cũng như Cù Lao Chàm , đến với Lý Sơn bạn có thể thưởng thức hàng chục loại hải sản tươi ngon do người dân nơi đây đánh bắt và chế biến.
Ốc tượng, cua huỳnh đế, cá tà ma,… Và chả cá Lý Sơn, dưa hấu Hắc mỹ nhân, bánh ít lá gai là những món ăn bạn có thể được thưởng thức và sẽ nhớ suốt đời.
>> Trả lại môi trường xanh- sạch- đẹp cho đảo Lý Sơn
Thạch Thảo (Tổng hợp)
Trả lại môi trường xanh- sạch- đẹp cho đảo Lý Sơn
Kể từ khi dây chuyền xử lý rác thải rắn sinh hoạt trên đảo Lý Sơn được Công ty TNHH TM Đa Lộc đưa vào vận hành chính thức đã hạn chế tối đa tình trạng ô nhiễm môi trường trên đảo. Đây là minh chứng rõ nét cho hiệu quả trong công tác xã hội hóa bảo vệ môi trường.
Cách đây tròn 1 năm, Nhà máy xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở huyện Lý Sơn do Tổng cục Môi trường (Bộ TN&MT) làm chủ đầu tư, với tổng kinh phí gần 30 tỷ đồng, sau 3 năm khởi công đã chính thức đưa vào hoạt động.
Chính quyền và nhân dân vui mừng như mở hội vì kỳ vọng sẽ khắc phục được tình trạng ô nhiễm môi trường vốn nan giải trên đất đảo lâu nay. Bởi lẽ, từ thời khai thiêng lập địa đến nay, rác thải sinh hoạt trên đảo chỉ được xử lý đốt thủ công, không ít người dân ý thức kém đã mang chúng đổ luôn ra biển, dẫn đến gây ô nhiễm nặng nề đến môi trường.
Thế nhưng, chỉ sau vài ngày vận hành, hệ thống xử lý này có cũng như không. Bình quân lượng rác thải mỗi ngày khoảng 20 tấn, nhưng lò đốt chỉ đốt được chưa đầy 1,5 tấn. Do vậy, lượng rác thải dư thừa trong khu vực nhà máy đã ô nhiễm càng ô nhiễm hơn, trong khi rác thải trong dân mỗi ngày thải ra càng nhiều.
rước thực trạng trên, UBND tỉnh đã thống nhất cho Công ty TNHHTM Đa Lộc tiếp quản và vận hành khu xử lý này theo hình thức xã hội hóa.
Công ty đã đưa dây chuyền xử lý rác thải rắn sinh hoạt trị giá gần 15 tỷ đồng vào hoạt động từ tháng 2.2016 đã hạn chế tối đa tình trạng ô nhiễm môi trường trên đảo, đảm bảo xử lý hết khối lượng rác mà người dân thải ra môi trường.
Hệ thống bao gồm các khu xử lý và phân loại rác công suất 50 tấn/ngày đêm, máy nghiền, hệ thống lò đốt, khu xử lý vi sinh, khu sản xuất phân bón, tất cả đều được xử lý và vận hành bằng dây chuyền theo mô hình công nghiệp đốt, tái chế và sản xuất phân bón khép kín.
Ông Trần Văn Ngọ- Quản lý Nhà máy cho biết, nhà máy có 23 lao động, trong đó đội thu gom có 9 người, kể từ khi đưa vào hoạt động đến nay, mỗi ngày có 8 chuyến xe thu gom rác ở 2 xã An Vĩnh và An Hải trong suốt cả tuần, chỉ nghỉ ngày chủ nhật.
Rác thải chở về nhà máy được bộ phận tiếp nhận, cân khối lượng và tập kết phun thuốc khử mùi, tiếp đó phân loại, tách lọc và đưa vào đốt.
Với rác thải là bao ni lông, sẽ được đưa vào lò đốt, còn rác thải là chất hữu cơ được đưa vào hầm ủ mùn sau 30 ngày sẽ cho ra phân bón vi sinh bán cho dân sử dụng cho các loại cây trồng.
Trong quá trình hoạt động, nhà máy còn trồng cây xanh xung quanh khuôn viên nhà máy để tạo môi trường xanh hơn.
Bà Nguyễn Thị Thơ, ở thôn Đông, xã An Hải vui mừng cho biết: “Từ khi có nhà máy này, môi trường trên đảo sạch sẽ hơn, rác còn cũng ít. Bà con rất đồng tình với cách làm này để môi trường của đảo xanh- sạch- đẹp hơn”.
Theo ông Trần Đạo- Phó Trưởng Phòng TN&MT huyện Lý Sơn, việc xã hội hóa trong công tác bảo vệ môi trường là điều rất cần thiết, dây chuyền xử lý rác thải rắn sinh hoạt này ra đảo Lý Sơn đã phát huy hiệu quả thiết thực, đáp ứng được nhu cầu thu gom vận chuyển, xử lý rác thải, hạn chế được tình trạng ô nhiễm môi trường cho đảo tiền tiêu.
Cũng theo ông Đạo, sắp tới, Phòng sẽ kiến nghị huyện kêu gọi lực lượng thanh niên tình nguyện trên đảo tiến hành thu gom lượng rác còn tồn đọng dưới nước như: trên biển, kênh mương… để nhà máy thu gom và xử lý triệt để, đồng thời kêu gọi người dân nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, xây dựng hình ảnh đảo Lý Sơn trở thành một hòn đảo xanh- sạch- đẹp hơn trong mắt người dân và du khách.
Theo Báo Quãng Ngãi
Cách đây tròn 1 năm, Nhà máy xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở huyện Lý Sơn do Tổng cục Môi trường (Bộ TN&MT) làm chủ đầu tư, với tổng kinh phí gần 30 tỷ đồng, sau 3 năm khởi công đã chính thức đưa vào hoạt động.
Chính quyền và nhân dân vui mừng như mở hội vì kỳ vọng sẽ khắc phục được tình trạng ô nhiễm môi trường vốn nan giải trên đất đảo lâu nay. Bởi lẽ, từ thời khai thiêng lập địa đến nay, rác thải sinh hoạt trên đảo chỉ được xử lý đốt thủ công, không ít người dân ý thức kém đã mang chúng đổ luôn ra biển, dẫn đến gây ô nhiễm nặng nề đến môi trường.
Thế nhưng, chỉ sau vài ngày vận hành, hệ thống xử lý này có cũng như không. Bình quân lượng rác thải mỗi ngày khoảng 20 tấn, nhưng lò đốt chỉ đốt được chưa đầy 1,5 tấn. Do vậy, lượng rác thải dư thừa trong khu vực nhà máy đã ô nhiễm càng ô nhiễm hơn, trong khi rác thải trong dân mỗi ngày thải ra càng nhiều.
rước thực trạng trên, UBND tỉnh đã thống nhất cho Công ty TNHHTM Đa Lộc tiếp quản và vận hành khu xử lý này theo hình thức xã hội hóa.
Công ty đã đưa dây chuyền xử lý rác thải rắn sinh hoạt trị giá gần 15 tỷ đồng vào hoạt động từ tháng 2.2016 đã hạn chế tối đa tình trạng ô nhiễm môi trường trên đảo, đảm bảo xử lý hết khối lượng rác mà người dân thải ra môi trường.
Hệ thống bao gồm các khu xử lý và phân loại rác công suất 50 tấn/ngày đêm, máy nghiền, hệ thống lò đốt, khu xử lý vi sinh, khu sản xuất phân bón, tất cả đều được xử lý và vận hành bằng dây chuyền theo mô hình công nghiệp đốt, tái chế và sản xuất phân bón khép kín.
Ông Trần Văn Ngọ- Quản lý Nhà máy cho biết, nhà máy có 23 lao động, trong đó đội thu gom có 9 người, kể từ khi đưa vào hoạt động đến nay, mỗi ngày có 8 chuyến xe thu gom rác ở 2 xã An Vĩnh và An Hải trong suốt cả tuần, chỉ nghỉ ngày chủ nhật.
Rác thải chở về nhà máy được bộ phận tiếp nhận, cân khối lượng và tập kết phun thuốc khử mùi, tiếp đó phân loại, tách lọc và đưa vào đốt.
Với rác thải là bao ni lông, sẽ được đưa vào lò đốt, còn rác thải là chất hữu cơ được đưa vào hầm ủ mùn sau 30 ngày sẽ cho ra phân bón vi sinh bán cho dân sử dụng cho các loại cây trồng.
Trong quá trình hoạt động, nhà máy còn trồng cây xanh xung quanh khuôn viên nhà máy để tạo môi trường xanh hơn.
Bà Nguyễn Thị Thơ, ở thôn Đông, xã An Hải vui mừng cho biết: “Từ khi có nhà máy này, môi trường trên đảo sạch sẽ hơn, rác còn cũng ít. Bà con rất đồng tình với cách làm này để môi trường của đảo xanh- sạch- đẹp hơn”.
Theo ông Trần Đạo- Phó Trưởng Phòng TN&MT huyện Lý Sơn, việc xã hội hóa trong công tác bảo vệ môi trường là điều rất cần thiết, dây chuyền xử lý rác thải rắn sinh hoạt này ra đảo Lý Sơn đã phát huy hiệu quả thiết thực, đáp ứng được nhu cầu thu gom vận chuyển, xử lý rác thải, hạn chế được tình trạng ô nhiễm môi trường cho đảo tiền tiêu.
Cũng theo ông Đạo, sắp tới, Phòng sẽ kiến nghị huyện kêu gọi lực lượng thanh niên tình nguyện trên đảo tiến hành thu gom lượng rác còn tồn đọng dưới nước như: trên biển, kênh mương… để nhà máy thu gom và xử lý triệt để, đồng thời kêu gọi người dân nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, xây dựng hình ảnh đảo Lý Sơn trở thành một hòn đảo xanh- sạch- đẹp hơn trong mắt người dân và du khách.
Theo Báo Quãng Ngãi
Thứ Sáu, 3 tháng 6, 2016
Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam: Quản lý, khai thác hiệu quả tài nguyên biển đảo
Biển và vùng bờ biển nước ta là nơi tập trung các hoạt động kinh tế khác nhau và vẫn chủ yếu được quản lý theo ngành. Mà, các ngành thì thường chú trọng nhiều hơn đến mục tiêu phát triển kinh tế, do đó các mục tiêu xã hội và môi trường ít được ưu tiên, chỉ chú ý đến lợi ích ngành mình.
Điều đó dẫn đến tính toàn vẹn và tính liên kết của các hệ thống tự nhiên vùng bờ bị chia cắt, mâu thuẫn sử dụng lợi ích tài nguyên ngày càng tăng, ảnh hưởng đến tính bền vững của hoạt động phát triển bền vững.
Khắc phục những bất cập trong quản lý
Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đức Thạnh, Viện Tài nguyên và Môi trường biển nhận xét, hiện các cơ quan quản lý biển còn chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ trong khi có những mảng trống bị bỏ ngỏ. Thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý, cơ quan khoa học và các tổ chức phi chính phủ trong việc sử dụng và quản lý tài nguyên biển, đặc biệt vùng ven bờ.
Bên cạnh đó, các chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường biển của Việt Nam thiếu thực tế, gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện. Cho đến nay quản lý môi trường biển, ven biển và hải đảo vẫn được rập khuôn theo cách tiếp cận của ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm, chưa tính đến đặc điểm về tính chất xuyên biên giới, đa ngành, đa mục đích sử dụng cho nên hiệu quả quản lý yếu kém và bộc lộ nhiều thiếu sót, bất cập.
Một nguyên nhân cũng cần phải kể đến là việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vưc bảo vệ môi trường cũng như việc tham gia ký kết và thực thi các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển của chúng ta còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa thực sự được quan tâm, chú trọng. Do đó, Việt Nam cần tích cực tham gia hơn nữa các điều ước ở phạm vi thế giới và khu vực về vấn đề bảo vệ môi trường biển.
Các điều ước quốc tế ở lĩnh vực này mà Việt Nam đã tham gia bao gồm: Công ước 1982 của Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNLOSC) là Bộ luật hoàn chỉnh nhất về biển, dành phần XII quy định việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển gồm có 11 mục và 46 điều khoản (từ điều 192 đến 237). Việc tham gia vào Công ước này tạo cơ sở pháp lý giúp chúng ta bảo vệ và gìn giữ môi trường biển của mình đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế để ngăn ngừa, hạn chế ô nhiễm biển chung.
Điểm nổi bật của Công ước là xác định rõ ràng quyền hạn và nghĩa vụ của quốc gia ven biển trong việc bảo vệ môi trường biển khỏi ô nhiễm. Công ước quốc tế ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu (MARPOL 73/78) ra đời năm 1973. Đây là Bộ luật chuyên ngành hàng hải của thế giới đã được thông qua tại hội nghị Quốc tế về ô nhiễm biển. Công ước đưa ra những quy định nhằm ngăn chặn ô nhiễm gây ra do tai nạn hoặc do vận chuyển hàng hóa dầu mỏ, nguy hiểm, độc hại bằng tàu, cũng như do nước, rác và khí thải ra từ tàu.
Nhà nước và Chính phủ cần thực hiện các chủ trương như tăng cường việc thực hiện bảo vệ môi trường, việc thực thi Luật đối với dải ven biển ở cấp tỉnh và huyện; tiến hành kiểm soát trên phạm vi toàn vùng biển hiện tượng thải dầu cặn và có kế hoạch, biện pháp ứng phó sự cố tràn dầu; xử lý, phòng ngừa ô nhiễm dầu có nguồn gốc đất liền. Việc quản lý nguồn nước ở các hệ thống sông ngòi cũng rất quan trọng, bởi vì các nhánh sông phần lớn đều đổ ra biển.
Khai thác tiềm năng hệ thống đảo
Theo Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Chu Hồi, Đại học Quốc gia Hà Nội, nguyên Phó tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam: Biển nước ta có hơn 3.000 đảo lớn, nhỏ với tổng diện tích khoảng 1.700 km2, trong đó có 3 đảo có diện tích lớn hơn 100 km2 bao gồm Phú Quốc ( tỉnh Kiên Giang), Cái Bầu (Quảng Ninh) và Cát Bà (thành phố Hải Phòng), 23 đảo có diện tích lớn hơn 10 km2, 82 đảo có diện tích lớn hơn 1 km2 và khoảng trên 1.400 đảo nhỏ chưa có tên.
Các đảo được cấu tạo bởi các thành tạo địa chất tuổi khác nhau, nên hình thù và các đặc trưng về đất, đá cũng rất khác nhau. Độc đáo nhất là quần thể đảo đá vôi bị karst hóa với các giá trị toàn cầu và quốc gia phân bố tập trung ở khu vực vịnh Bái Tử Long, vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), quần đảo Cát Bà và quần đảo Long Châu (Hải Phòng).
Đảo là một loại hình hệ sinh thái đặc thù, chúng hợp thành cụm đảo, quần đảo và hệ thống đảo quốc gia. Điều đáng chú ý là hệ thống đảo của nước ta phân bố tự nhiên thành các tuyến, ngoài cùng là "tấm bình phong” Hoàng Sa và Trường Sa .
Cho nên về ý nghĩa kinh tế có thể ví mỗi hòn đảo là “một hòn ngọc xanh” trên nền biển bạc. Về mặt chủ quyền mỗi hòn đảo như “một cột mốc chủ quyền tự nhiên” của quốc gia và về mặt an ninh quốc phòng, mỗi đảo như một “chiến hạm” không thể đánh chìm. Các tuyến đảo và quần đảo không chỉ có ý nghĩa trong việc kiểm soát các tuyến đường biển qua lại Biển Đông, mà còn có ý nghĩa phòng thủ chiến lược quan trọng đối với đất nước.
Nhiều cụm đảo ở nước ta có thể xây dựng thành các trung tâm kinh tế biển - đảo và dịch vụ hậu cần cho các hoạt động biển xa nói chung và cho các hoạt động khai thác biển, du lịch quốc gia nói riêng. Các cụm đảo và khu vực ven biển kết hợp tạo ra những khu vực có lợi thế địa lý rất quan trọng cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng và bảo vệ an ninh chủ quyền vùng biển Tổ quốc.
Các đảo, cụm đảo có lợi thế địa lý, diện tích lớn, đông dân cư như Phú Quốc, Vân Đồn, Côn Đảo, Cát Bà, Lý Sơn... có thể xây dựng thành các trung tâm kinh tế hải đảo toàn diện, hiện đại. Các khu kinh tế đảo như vậy đóng vai trò như những “cực phát triển”, ảnh hưởng lan tỏa ra vùng biển xung quanh; là các “mối tiếp nối” quan trọng giữa dải ven biển và các vùng biển phía ngoài trong bình đồ tổ chức không gian biển cho phát triển kinh tế cả nước.
Bên cạnh các giá trị cảnh quan nổi, quanh đảo còn quy tụ các hệ sinh thái quan trọng đối với nguồn lợi hải sản, với phát triển nghề cá nói chung, nghề cá giải trí nói riêng và du lịch biển-đảo. Trên đảo có các làng cá, di tích văn hóa và lịch sử thuần Việt phản ánh “văn hóa vạn chài” hay còn gọi chung là “văn hóa ứng xử biển cả”, góp phần tạo ra các giá trị du lịch nghề cá mà đến nay chưa được khai thác và phát triển theo đúng nghĩa của nó.
Trong số hơn 200 đảo lớn nhỏ con người có thể ra sinh sống và phát triển kinh tế ở nước ta, mới chỉ có 66 đảo có người sinh sống với trên 240.000 người và mật độ dân số khoảng 95 người/km2 (năm 2010), riêng đảo Lý Sơn trên 2.000 người/km2 (năm 2014). Tại Quyết định số 186 ngày 24/1/2014, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt xây dựng 5 “Đảo Thanh niên” để gắn phát triển kinh tế với bảo vệ vững chắc biển đảo.
Trong số đó xây 3 đảo mới: Đảo Trần thuộc huyện đảo Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh; đảo Hòn Chuối thuộc huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau; đảo Thổ Châu thuộc huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang và tiếp tục đầu tư xây dựng Đảo Thanh niên Bạch Long Vĩ, thành phố Hải Phòng và đảo Thanh niên Cồn Cỏ, tỉnh Quảng Trị. Như vậy, còn khoảng 2.800 đảo nhỏ hoang sơ, không đủ điều kiện con người ra sinh sống mà chỉ thích hợp với đời sống của các loài sinh vật hoang dã khác vẫn chưa được khai thác, sử dụng và quản lý cụ thể.
Năm 2010, Chính phủ đã cho triển khai “Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội hệ thống đảo Việt Nam đến năm 2020” theo cách tiếp cận quy hoạch truyền thống, nên số lượng đảo nhỏ hoang sơ nói trên chưa được đề cập xứng tầm.
Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Chu Hồi cho rằng, trục chính của kinh tế đảo nói chung và đặc biệt đối với các đảo nhỏ trong trường hợp của nước ta là du lịch sinh thái gắn với nghề cá giải trí và bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Các hoạt động khác được xem là những dịch vụ hỗ trợ cần phát triển nhưng không phải là “mũi nhọn” trong dài hạn. Tùy thuộc lợi thế vùng miền, mỗi cụm đảo và từng đảo riêng biệt, khi quy hoạch chúng ta phải chú ý khai thác tính đặc thù, lợi thế so sánh của nó để không mắc bệnh “hội chứng” trong phát triển. Cần cơ chế đặc thù, cởi mở hơn.
Trong lĩnh vực biển đảo Việt Nam phải từng bước chuyển từ “kinh tế biển nâu” sang “kinh tế biển xanh” dựa vào bảo tồn thiên nhiên và văn hóa biển, đảo. Khi ấy, các ngành nghề mới sẽ xuất hiện, tạo ra công ăn việc làm mới cho người dân ven biển, trên các đảo, góp phần xóa đói giảm nghèo, cải thiện sinh kế người dân, làm thay đổi nhận thức và hành vi cá nhân, người dân sẽ bám biển làm giàu cho gia đình, quê hương và bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước.
>> Lý Sơn, hòn đảo của những sắc màu
Điều đó dẫn đến tính toàn vẹn và tính liên kết của các hệ thống tự nhiên vùng bờ bị chia cắt, mâu thuẫn sử dụng lợi ích tài nguyên ngày càng tăng, ảnh hưởng đến tính bền vững của hoạt động phát triển bền vững.
Khắc phục những bất cập trong quản lý
Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đức Thạnh, Viện Tài nguyên và Môi trường biển nhận xét, hiện các cơ quan quản lý biển còn chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ trong khi có những mảng trống bị bỏ ngỏ. Thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý, cơ quan khoa học và các tổ chức phi chính phủ trong việc sử dụng và quản lý tài nguyên biển, đặc biệt vùng ven bờ.
Bên cạnh đó, các chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường biển của Việt Nam thiếu thực tế, gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện. Cho đến nay quản lý môi trường biển, ven biển và hải đảo vẫn được rập khuôn theo cách tiếp cận của ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm, chưa tính đến đặc điểm về tính chất xuyên biên giới, đa ngành, đa mục đích sử dụng cho nên hiệu quả quản lý yếu kém và bộc lộ nhiều thiếu sót, bất cập.
Một nguyên nhân cũng cần phải kể đến là việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vưc bảo vệ môi trường cũng như việc tham gia ký kết và thực thi các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển của chúng ta còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa thực sự được quan tâm, chú trọng. Do đó, Việt Nam cần tích cực tham gia hơn nữa các điều ước ở phạm vi thế giới và khu vực về vấn đề bảo vệ môi trường biển.
Các điều ước quốc tế ở lĩnh vực này mà Việt Nam đã tham gia bao gồm: Công ước 1982 của Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNLOSC) là Bộ luật hoàn chỉnh nhất về biển, dành phần XII quy định việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển gồm có 11 mục và 46 điều khoản (từ điều 192 đến 237). Việc tham gia vào Công ước này tạo cơ sở pháp lý giúp chúng ta bảo vệ và gìn giữ môi trường biển của mình đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế để ngăn ngừa, hạn chế ô nhiễm biển chung.
Điểm nổi bật của Công ước là xác định rõ ràng quyền hạn và nghĩa vụ của quốc gia ven biển trong việc bảo vệ môi trường biển khỏi ô nhiễm. Công ước quốc tế ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu (MARPOL 73/78) ra đời năm 1973. Đây là Bộ luật chuyên ngành hàng hải của thế giới đã được thông qua tại hội nghị Quốc tế về ô nhiễm biển. Công ước đưa ra những quy định nhằm ngăn chặn ô nhiễm gây ra do tai nạn hoặc do vận chuyển hàng hóa dầu mỏ, nguy hiểm, độc hại bằng tàu, cũng như do nước, rác và khí thải ra từ tàu.
Nhà nước và Chính phủ cần thực hiện các chủ trương như tăng cường việc thực hiện bảo vệ môi trường, việc thực thi Luật đối với dải ven biển ở cấp tỉnh và huyện; tiến hành kiểm soát trên phạm vi toàn vùng biển hiện tượng thải dầu cặn và có kế hoạch, biện pháp ứng phó sự cố tràn dầu; xử lý, phòng ngừa ô nhiễm dầu có nguồn gốc đất liền. Việc quản lý nguồn nước ở các hệ thống sông ngòi cũng rất quan trọng, bởi vì các nhánh sông phần lớn đều đổ ra biển.
Khai thác tiềm năng hệ thống đảo
Theo Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Chu Hồi, Đại học Quốc gia Hà Nội, nguyên Phó tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam: Biển nước ta có hơn 3.000 đảo lớn, nhỏ với tổng diện tích khoảng 1.700 km2, trong đó có 3 đảo có diện tích lớn hơn 100 km2 bao gồm Phú Quốc ( tỉnh Kiên Giang), Cái Bầu (Quảng Ninh) và Cát Bà (thành phố Hải Phòng), 23 đảo có diện tích lớn hơn 10 km2, 82 đảo có diện tích lớn hơn 1 km2 và khoảng trên 1.400 đảo nhỏ chưa có tên.
Các đảo được cấu tạo bởi các thành tạo địa chất tuổi khác nhau, nên hình thù và các đặc trưng về đất, đá cũng rất khác nhau. Độc đáo nhất là quần thể đảo đá vôi bị karst hóa với các giá trị toàn cầu và quốc gia phân bố tập trung ở khu vực vịnh Bái Tử Long, vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), quần đảo Cát Bà và quần đảo Long Châu (Hải Phòng).
Đảo là một loại hình hệ sinh thái đặc thù, chúng hợp thành cụm đảo, quần đảo và hệ thống đảo quốc gia. Điều đáng chú ý là hệ thống đảo của nước ta phân bố tự nhiên thành các tuyến, ngoài cùng là "tấm bình phong” Hoàng Sa và Trường Sa .
Cho nên về ý nghĩa kinh tế có thể ví mỗi hòn đảo là “một hòn ngọc xanh” trên nền biển bạc. Về mặt chủ quyền mỗi hòn đảo như “một cột mốc chủ quyền tự nhiên” của quốc gia và về mặt an ninh quốc phòng, mỗi đảo như một “chiến hạm” không thể đánh chìm. Các tuyến đảo và quần đảo không chỉ có ý nghĩa trong việc kiểm soát các tuyến đường biển qua lại Biển Đông, mà còn có ý nghĩa phòng thủ chiến lược quan trọng đối với đất nước.
Nhiều cụm đảo ở nước ta có thể xây dựng thành các trung tâm kinh tế biển - đảo và dịch vụ hậu cần cho các hoạt động biển xa nói chung và cho các hoạt động khai thác biển, du lịch quốc gia nói riêng. Các cụm đảo và khu vực ven biển kết hợp tạo ra những khu vực có lợi thế địa lý rất quan trọng cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng và bảo vệ an ninh chủ quyền vùng biển Tổ quốc.
Các đảo, cụm đảo có lợi thế địa lý, diện tích lớn, đông dân cư như Phú Quốc, Vân Đồn, Côn Đảo, Cát Bà, Lý Sơn... có thể xây dựng thành các trung tâm kinh tế hải đảo toàn diện, hiện đại. Các khu kinh tế đảo như vậy đóng vai trò như những “cực phát triển”, ảnh hưởng lan tỏa ra vùng biển xung quanh; là các “mối tiếp nối” quan trọng giữa dải ven biển và các vùng biển phía ngoài trong bình đồ tổ chức không gian biển cho phát triển kinh tế cả nước.
Bên cạnh các giá trị cảnh quan nổi, quanh đảo còn quy tụ các hệ sinh thái quan trọng đối với nguồn lợi hải sản, với phát triển nghề cá nói chung, nghề cá giải trí nói riêng và du lịch biển-đảo. Trên đảo có các làng cá, di tích văn hóa và lịch sử thuần Việt phản ánh “văn hóa vạn chài” hay còn gọi chung là “văn hóa ứng xử biển cả”, góp phần tạo ra các giá trị du lịch nghề cá mà đến nay chưa được khai thác và phát triển theo đúng nghĩa của nó.
Trong số hơn 200 đảo lớn nhỏ con người có thể ra sinh sống và phát triển kinh tế ở nước ta, mới chỉ có 66 đảo có người sinh sống với trên 240.000 người và mật độ dân số khoảng 95 người/km2 (năm 2010), riêng đảo Lý Sơn trên 2.000 người/km2 (năm 2014). Tại Quyết định số 186 ngày 24/1/2014, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt xây dựng 5 “Đảo Thanh niên” để gắn phát triển kinh tế với bảo vệ vững chắc biển đảo.
Trong số đó xây 3 đảo mới: Đảo Trần thuộc huyện đảo Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh; đảo Hòn Chuối thuộc huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau; đảo Thổ Châu thuộc huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang và tiếp tục đầu tư xây dựng Đảo Thanh niên Bạch Long Vĩ, thành phố Hải Phòng và đảo Thanh niên Cồn Cỏ, tỉnh Quảng Trị. Như vậy, còn khoảng 2.800 đảo nhỏ hoang sơ, không đủ điều kiện con người ra sinh sống mà chỉ thích hợp với đời sống của các loài sinh vật hoang dã khác vẫn chưa được khai thác, sử dụng và quản lý cụ thể.
Năm 2010, Chính phủ đã cho triển khai “Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội hệ thống đảo Việt Nam đến năm 2020” theo cách tiếp cận quy hoạch truyền thống, nên số lượng đảo nhỏ hoang sơ nói trên chưa được đề cập xứng tầm.
Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Chu Hồi cho rằng, trục chính của kinh tế đảo nói chung và đặc biệt đối với các đảo nhỏ trong trường hợp của nước ta là du lịch sinh thái gắn với nghề cá giải trí và bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Các hoạt động khác được xem là những dịch vụ hỗ trợ cần phát triển nhưng không phải là “mũi nhọn” trong dài hạn. Tùy thuộc lợi thế vùng miền, mỗi cụm đảo và từng đảo riêng biệt, khi quy hoạch chúng ta phải chú ý khai thác tính đặc thù, lợi thế so sánh của nó để không mắc bệnh “hội chứng” trong phát triển. Cần cơ chế đặc thù, cởi mở hơn.
Trong lĩnh vực biển đảo Việt Nam phải từng bước chuyển từ “kinh tế biển nâu” sang “kinh tế biển xanh” dựa vào bảo tồn thiên nhiên và văn hóa biển, đảo. Khi ấy, các ngành nghề mới sẽ xuất hiện, tạo ra công ăn việc làm mới cho người dân ven biển, trên các đảo, góp phần xóa đói giảm nghèo, cải thiện sinh kế người dân, làm thay đổi nhận thức và hành vi cá nhân, người dân sẽ bám biển làm giàu cho gia đình, quê hương và bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước.
>> Lý Sơn, hòn đảo của những sắc màu
TTXVN
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)